Nền kinh tế nước ta vừa trải qua một năm 2021 và nửa đầu năm 2022 đặc biệt khó khăn dưới tác động của dịch bệnh COVID. Trong bối cảnh như vậy, hoạt động xuất nhập khẩu là một điểm sáng đặc biệt, với tổng kim ngạch xuất, nhập khẩu hàng hóa năm 2021 đạt mức kỷ lục 668,5 tỷ USD, tăng 22,6% so với năm trước; và 6 tháng nửa đầu năm 2022 kim ngạch xuất khẩu ước đạt 185,94 tỷ USD, tăng 17,3%, nhập khẩu đạt 185,23 tỷ USD, tăng 15,5% so với cùng kỳ năm trước.
Một trong những động lực quan trọng cho tăng trưởng ấn tượng của xuất nhập khẩu Việt Nam trong bối cảnh khó khăn chính là các Hiệp định Thương mại Tự do (FTA), trong đó, phải kể đến những FTA thế hệ mới như CPTPP có hiệu lực năm 2019, EVFTA có hiệu lực năm 2020... Vì thế, các doanh nghiệp Việt Nam dành sự quan tâm đặc biệt tới Hiệp định Đối tác Kinh tế Toàn diện Khu vực (RCEP), Hiệp định thương mại tự do mới nhất vừa đi vào thực thi từ 1/1/2022 này.
RCEP quan trọng không chỉ bởi đây là Hiệp định có quy mô lớn nhất toàn cầu. Với các doanh nghiệp Việt Nam, Hiệp định có tác động lớn hơn thế bởi các đối tác RCEP là nguồn cung của khoảng 70% nhập khẩu, là thị trường đầu ra của gần 40% xuất khẩu Việt Nam. Đây cũng là khu vực bao trùm nhiều chuỗi giá trị toàn cầu và các nguồn FDI lớn nhất của nền kinh tế. Vì vậy, Hiệp định này được kỳ vọng là sẽ mở ra những cơ hội hội nhập cho các doanh nghiệp. Mặt khác, với nhiều đối tác có cơ cấu kinh tế cạnh tranh trực tiếp với Việt Nam, RCEP cũng đặt ra các thách thức cạnh tranh không nhỏ cho doanh nghiệp.

RCEP và những cơ hội mà doanh nghiệp kỳ vọng
Từ góc độ thương mại hàng hóa, các doanh nghiệp Việt Nam nhìn nhận RCEP như là một con đường ưu tiên mới để thúc đẩy kinh doanh, đặc biệt là xuất nhập khẩu, với 14 đối tác trong khu vực, nhất là với các thị trường Đông Bắc Á và châu Đại dương.
Trước Hiệp định này, Việt Nam đã có tổng cộng 09 FTA riêng rẽ với một hoặc một số đối tác RCEP. Tuy nhiên, RCEP tạo ra một sự khác biệt đáng kể với các FTA đã có nhờ vào lợi thế về quy mô. Với 15 thành viên, trong đó có Trung Quốc, Hàn Quốc, Nhật Bản… RCEP bao trùm đồng thời các nguồn cung nguyên liệu cũng như thị trường đầu ra quan trọng của nhiều loại hàng hóa Việt Nam. Như vậy, khi có hiệu lực, RCEP sẽ tạo ra một không gian cộng hưởng rộng lớn mà ở đó các dòng hàng hóa của doanh nghiệp Việt Nam có thể lưu chuyển thuận lợi, không rào cản về thuế quan và trong các khung khổ thống nhất, minh bạch và thuận lợi.
Cụ thể, về ưu đãi thuế quan, ngay từ ngày đầu tiên Hiệp định có hiệu lực, nhiều loại hàng hóa xuất khẩu của doanh nghiệp đã có thể tiếp cận các thị trường RCEP với mức thuế ưu đãi 0% (ví dụ từ 1/1/2022, Trung Quốc loại bỏ thuế với khoảng 68% số dòng thuế cho hàng hóa xuất khẩu Việt Nam; với Australia, tỷ lệ này là 75%, Hàn Quốc 64%...). Tới cuối lộ trình, tỷ lệ các dòng thuế được các nước RCEP cam kết loại bỏ thuế quan nhập khẩu cho hàng hóa Việt Nam phần lớn đều nằm trong khoảng 90-100% dòng thuế. Vì vậy, với RCEP, các doanh nghiệp sẽ thêm một lựa chọn về thuế quan ưu đãi khi xuất khẩu sang thị trường các nước thành viên bên cạnh các ưu đãi theo các FTA đơn lẻ trước đây.
Đặc biệt, nhờ vào việc hài hòa quy tắc xuất xứ nội khối RCEP, hàng hóa có nguyên phụ liệu nhập khẩu mà phần lớn là từ các nước trong khối của doanh nghiệp Việt Nam có thể dễ dàng đáp ứng điều kiện để hưởng ưu đãi thuế quan trong RCEP cao hơn bất kỳ FTA nào đã có, từ đó gia tăng xuất khẩu trong khu vực này, nhất là ở các thị trường như Nhật Bản, Hàn Quốc, Australia, New Zealand…
Hơn nữa, với thị trường hơn 2,3 tỷ dân với mức thu nhập đang tăng lên, nhu cầu cao, có nhiều phân khúc khác nhau từ rất khắt khe tới tương đối dễ tính, và có thị trường thương mại điện tử tăng trưởng với tốc độ ấn tượng, RCEP được kỳ vọng sẽ mở ra cơ hội xuất khẩu cho nhiều doanh nghiệp hơn, nhất là các doanh nghiệp siêu nhỏ, nhỏ và vừa. Điều này có thể tạo ra khác biệt giữa RCEP với các FTA thế hệ mới nhiều tiềm năng nhưng không nhiều doanh nghiệp có đủ năng lực tận dụng như CPTPP hay EVFTA.
Với nhập khẩu, các doanh nghiệp cũng có thêm con đường thuận lợi để tiếp cận nguồn cung nguyên phụ liệu, máy móc thiết bị từ các nước RCEP với giá tốt hơn, cạnh tranh hơn, từ đó có thể tiết kiệm chi phí đầu vào, nâng cao hiệu quả sản xuất kinh doanh. Cụ thể, trong RCEP, Việt Nam cam kết xóa bỏ thuế quan ngay lập tức với 65,3% số dòng thuế nhập khẩu từ các nước RCEP, và tới cuối lộ trình (15-20 năm với từng nước), Việt Nam sẽ xóa bỏ thuế quan cho 85-90% dòng thuế tùy đối tác.
Về các biện pháp phi thuế, các cam kết thống nhất giữa 15 nền kinh tế trong RCEP về hải quan và tạo thuận lợi thương mại, hàng rào kỹ thuật, vệ sinh an toàn thực phẩm, phòng vệ thương mại… sẽ giúp hạn chế tình trạng khác biệt rất lớn về cơ chế quản lý giữa các nước RCEP, từ đó doanh nghiệp xuất nhập khẩu của chúng ta cũng có thể tiết giảm được các chi phí tuân thủ, gia tăng hiệu quả cạnh tranh.
Từ các góc độ khác, RCEP với những cam kết mở cửa cho thị trường dịch vụ, đầu tư, mua sắm công, các quy tắc chung về sở hữu trí tuệ, thương mại điện tử, cạnh tranh… cũng được cho là sẽ mở ra cơ hội mới cho các doanh nghiệp Việt Nam trong kinh doanh, đầu tư vào các nước RCEP cũng như thu hút FDI từ RCEP vào Việt Nam.
Hơn thế nữa, RCEP hiện là khu vực trọng điểm của nhiều chuỗi giá trị toàn cầu, với sự có mặt của các đối tác nắm giữ vai trò trọng yếu trong các chuỗi này. Tham gia RCEP, doanh nghiệp Việt Nam mong sẽ có thêm cơ hội đáng kể để tham gia sâu hơn, hiệu quả và thực chất hơn vào các chuỗi này.
Trong bối cảnh thương mại toàn cầu đang đứng trước nhiều thách thức diễn biến khó lường của dịch bệnh COVID, các cuộc khủng hoảng nguyên vật liệu, chiến sự ở Ukraine cũng như các bất ổn trong nhiều chuỗi cung ứng, và nhiều doanh nghiệp Việt Nam đang phải tìm kiếm và khai thác mọi khả năng có thể để tiếp tục kinh doanh và phát triển bền vững, những lợi ích kinh tế tiềm tàng từ RCEP như được đề cập là rất có ý nghĩa với các doanh nghiệp.
Những thách thức với doanh nghiệp từ RCEP
Trong so sánh với 14 FTA mà Việt Nam đang thực hiện trước đó, có lẽ RCEP là Hiệp định đặt các doanh nghiệp Việt Nam trước thách thức cạnh tranh với cùng lúc nhiều đối thủ mạnh nhất. Nhiều nền kinh tế trong RCEP có cơ cấu tương tự Việt Nam, trong khi kinh nghiệm, nguồn vốn và sức cạnh tranh của họ lại tốt hơn nhiều doanh nghiệp của chúng ta. Thách thức từ Hiệp định này với các doanh nghiệp Việt Nam vì vậy là rất đáng kể, không chỉ ở thị trường trong nước mà còn cả ở các thị trường xuất khẩu.
Trên thị trường nội địa, với các cam kết mở cửa trong RCEP, hàng hóa tương tự từ các thành viên RCEP, đặc biệt là từ Trung Quốc và ASEAN sẽ có thêm một cơ hội ưu đãi thuế khi nhập khẩu vào thị trường Việt Nam. Sức ép cạnh tranh ngay trên sân nhà với các doanh nghiệp Việt Nam được dự báo là sẽ gay gắt và khó khăn hơn.
Trên thực tế, các chuyên gia và doanh nghiệp đều đánh giá cao nỗ lực của các nhà đàm phán Việt Nam để đạt được mức mở cửa tương đối hợp lý trong RCEP. Cụ thể, với các mức thuế ưu đãi cơ bản không vượt quá các ưu đãi trong các FTA Việt Nam đã có với từng đối tác RCEP và lộ trình mở cửa dài, cam kết thuế quan của Việt Nam cho các đối tác RCEP vẫn dành không gian và thời gian phù hợp, mở cửa dần dần, để các doanh nghiệp Việt Nam kịp điều chỉnh, làm quen với sức ép cạnh tranh mới.
Mặc dù vậy, thêm một cam kết mở cửa thị trường là thêm một thách thức cạnh tranh, đặc biệt lại là từ các đối thủ mạnh, cạnh tranh trực tiếp như RCEP. Nguy cơ từ RCEP với nhiều doanh nghiệp, đặc biệt là các doanh nghiệp nhỏ và vừa, vẫn là rất đáng kể.
Ở các thị trường xuất khẩu trong RCEP, cạnh tranh cũng được dự báo có thể sẽ phức tạp hơn khi mà không chỉ Việt Nam có lợi thế FTA như trước đây mà cả các đối thủ cạnh tranh của chúng ta cũng có lợi thế tương tự nhờ vào RCEP. Ví dụ với thị trường Nhật Bản, trước RCEP, hàng hóa Việt Nam có lợi thế ưu đãi từ 03 FTA (là FTA ASEAN-Nhật Bản, FTA Việt Nam – Nhật Bản, và CPTPP) trong khi Trung Quốc không được hưởng ưu đãi thuế quan do chưa có FTA nào với nước này. Từ 1/1/2022 khi RCEP có hiệu lực, hàng hóa Trung Quốc cũng có thể được hưởng ưu đãi ở thị trường này, và vì vậy hàng hóa của chúng ta sẽ phải cạnh tranh vất vả hơn với đối thủ này.
Ở các góc độ khác, một số nguy cơ mới cũng đặt ra cho chúng ta với việc RCEP có hiệu lực. Ví dụ, cơ hội tham gia sâu hơn vào các chuỗi giá trị trong khu vực cũng như lợi thế thu hút dòng FDI dịch chuyển của chúng ta nhờ vào lợi thế là trung tâm hội tụ FTA cũng có thể sẽ gặp cạnh tranh nhất định khi các nước khác trong khu vực cũng sẽ có thêm lợi thế tương tự Việt Nam nhờ RCEP.
Những thách thức này, đặt trong bối cảnh kinh tế thế giới đang có nhiều diễn biến phức tạp, với nhiều ảnh hưởng trực tiếp và gián tiếp tới các doanh nghiệp Việt Nam và sự cạnh tranh gay gắt giữa các nước trong khu vực, nếu không được xử lý hiệu quả, có thể sẽ dẫn tới những tác động bất lợi cho doanh nghiệp cũng như nền kinh tế.